Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

CA DAO NGÀY LỄ TẾT



1. Anh Hai anh tính đi mô
Tôi đi chợ Tết mua khô cá thiều.
2. Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không an.
3. Bỏ con bỏ cháu,
Không ai bỏ hai mươi sáu chợ Yên
Bỏ tổ bỏ tiên
Không ai bỏ chợ Viềng mồng tám.
4. Bỏ con, bỏ cháu
Không ai bỏ hội mùng 6 chợ Dưng.
5. Cầu Quan vui lắm ai ơi,
Trên thì họp chợ, dưới bơi thuyền rồng!
6. Chiều Ba Mươi anh không đi Tết,
Rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ,
Hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công.
7. Chưa chi anh đã vội về
Hay là xuân giục vội về với xuân.
8. Chúc mừng thượng đẳng tối linh
Phù trì dân xã hiền-vinh sang giàu
Trước đình lại có rồng chầu
Có đôi qui phụng tựa màu non tiên
Giữa đình có đấng bát tiên...
9. Có, không: mùa Đông mới biết
Giàu nghèo: Ba mươi Tết mới hay.
10. Con ơi! ham học chớ đùa
Bữa mô ngày Tết thỉnh bùa thầy đeo.
11. Cú kêu ba tiếng cú kêu
Kêu mau đến Tết, dựng nêu ăn chè
Dựng nêu thì dựng đầu hè
Để sân gieo cải, vãi mè ăn chung.
12. Dầu bông bưởi dầu bông lài
Xức vô tới Tết còn hoài mùi thơm.
13. Dù ai buôn bán nơi đâu
Nhớ đến ngày Tết rủ nhau mà về.
14. Đi cày  ba vụ
Không đủ ăn ba ngày Tết!
15. Đi đâu mặc kệ đi đâu
Đến ngày giỗ chạp phải mau mà về.
16. Gia Lạc chỉ mở ngày Xuân
Quanh năm, suốt tháng khó lần tìm ra.
17. Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết Ba Giai đến nhà.
18. Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ
Sáng mồng Một anh bận việc làng,
Ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!
19. Khôn ngoan đến cửa quan mới biết,
Giàu có Ba mươi Tết mới hay.
20. Mỗi năm vào dịp xuân sang
Em về Triều Khúc xem làng hội xuân
Múa cờ, múa trống, múa lân
Nhớ ai trong hội có lần gọi em…
21. Một năm là mấy tháng xuân
Ăn chơi cho thỏa phong trần ai ơi!
22. Mồng một Tết cha
Mồng ba Tết thầy.
23. Mồng một thì ở nhà cha,
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
24. Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình.
Mồng bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi.
Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua.
25. Mồng chín vía Trời
Mồng mười vía Đất.
26. Mưa xuân, lác đác vườn đào
Công anh đắp đất, ngăn rào trồng hoa.
27. Nay mừng tứ hải đồng xuân
Tam dương khai thái, muôn dân hòa bình.
Sĩ thời chăm việc học hành,
Một mai khoa bảng để dành công danh.
Công thì phượng các long đình
Đủ nghề sư khoáng, rứt nghề công thâu.
Nông thời cuốc bẫm cày sâu,
Thu hòa hạ mạch, phong thâu có ngày.
Thương thời buôn bán liền tay
Rứt tài Tử Cống ai tày cho đang!
28. Nhớ xưa trả nợ ba đời
Chiều ba mươi Tết mẹ ngồi nhìn con
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo
Chừ đây hết cực hết nghèo
Vui theo ra ruộng nhàn theo về nhà.
29. Rủ nhau đi đánh bài chòi
Ở nhà con khóc nó lòi rún ra.
30. Số cô chẳng giàu thì nghèo,
Ngày ba mươi Tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ có cha,
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông.
Số cô có vợ có chồng,
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
31. Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
32. Tới đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau nữa mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên!
33. Tết đến sau lưng
Ông vải thì mừng
Con cháu thì lo.
34. Thánh chúa vạn niên.
Thánh chúa vạn niên!
Chúng tôi nay dâng cách đội đèn
Thái hòa gặp tiết xuân thiên
Gió đưa chồi ngọc, hoa chen cành vàng
Trong nhà ta đèn thắp sáng trưng
Song le còn muốn chơi trăng ngoài thềm
Để cho trong ấm ngoài êm...
35. Thừa con gả cho hàng tờ
Đến ba mươi tết phất phơ ngoài đường.
36. Thứ nhất nêu cao,
Thứ nhì pháo kêu.
37. Tới đây viếng cảnh, thăm hoa
Trước mừng các cố, sau là mừng dân.
Sau nữa tôi mừng cả làng tuần
Mừng cho nam nữ chơi Xuân hội nầy
Một mai đàn có bén dây
Ơn dân vạn bội biết ngày nào quên!
38. Xúc xắc xúc xẻ
Nhà nào còn đèn còn lửa
Mở cửa cho chúng tôi vào
Bước lên giường cao: Có đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp: Có đôi rồng chầu
Bước ra đằng sau: Có nhà ngói lợp
Ngựa ông còn buộc
Voi ông còn cầm
Ông sống một trăm linh năm tuổi lẻ
Vợ ông sinh đẻ
Những con tốt lành
Những con như tranh
Những con như đối...
39. Xứ Nam: nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc: Vân Khám, xứ Đoài: Hướng Canh.

Sưu tầm

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

CA DAO TRÀO PHÚNG



Đề cập đến văn chương, chúng ta không thể nào bỏ qua nền thi ca bình dân mà ca dao là một trong những thể loại quen thuộc nầy. Từ lâu, ca dao đã đi vào lòng dân tộc và ca dao trào phúng là ca dao nói về những nét trào phúng, hài hước, bông đùa, hóm hĩnh, dí dỏm trong kho tàng văn chương bình dân của tiếng Việt ta.
1. Ai ơi chồng dữ thì lo,
Mẹ chồng mà dữ mổ bò ăn khao.
2. Ai ơi chồng dữ thì rầu,
Bố chồng mà dữ mổ trâu ăn mừng.
3. Ai ơi đừng lấy học trò Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.
4. Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà cũng biết đánh roi, đi quyền.
5. Ai về Bình Định mà coi,
Đàn bà Bình Định ra oai đánh chồng.
6. Ai mua tôi bán cây si,
Si tôi tốt giống, cành chi chít cành.
Hễ mà gặp được đất lành,
Là si phát triển trở thành “siđa”.
7. Ai đời chồng thấp, vợ cao,
Rờ vú không tới lấy sào mà quơ.
8. Ai về nhắn với ông câu,
Cá ăn thời giật, để lâu mất mồi.
9. Anh đánh thì em chịu đòn,
Tánh em hoa nguyệt mười con chẳng chừa.
10. Anh về chẻ lạt bó tro,
Rán sành ra mỡ em cho làm chồng.
11. Anh về em cũng về theo,
Mẹ anh đóng cửa, em leo cột nhà.
12. Bà già đã tám mươi tư Ngồi trông cửa sổ gởi thư kén chồng.
13. Ba năm ở với người đần Chẳng bằng một lúc ghé gần người khôn.
14. Ba cô đội gạo lên chùa Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư Sư về sư ốm tương tư Ốm lăn ốm lóc nên sư trọc đầu Ai làm cho dạ sư sầu Cho ruột sư héo như bầu đứt dây.
15. Bắc thang lên hỏi ông trời
Có tiền cho gái có đòi được chăng ?
16. Bà con có biết hay không?
Bố chồng là lông chim phượng,
Mẹ chồng là tượng mới tô,
Nàng dâu mới về là bồ chịu chửi.
17. Bà cả, bà bé, bà ba,
Ba bà dắt díu tìm nhà bà tư.
18. Bà già đi chợ Cầu Đông
Bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng?
Thấy bói gieo quẻ nói rằng:
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn.
19. Bến Tre nhiều gái ế chồng,
Không tin xuống chợ Mỹ Lồng mà coi!
20. Buồn rầu, buồn rĩ, buồn non,
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.
21. Buồn tình nằm ngửa chình ình,
Không ai nằm úp lên mình cho vui.
22. Buồn tình hai đứa buồn tình,
Ai về Đồng Tháp cho mình quá giang.
23. Cái giường mà biết nói năng,
Thì ông hàng xóm hàm răng chẳng còn.
24. Cam sành lột vỏ còn chua,
Thấy em còn bé, anh “cua” để dành.
25. Cam đường bóc vỏ còn the,
Thấy em còn bé anh “ve” để dành.
26. Cầm chài mà vãi bụi tre,
Con gái mười bảy đi “ve” ông già.
27. Cây lê, cây lựu, cây đào,
Ba cây anh cũng muốn rào cả ba.
28. Chắp tay lạy cụ tình yêu,
Cho con lấy được nàng Kiều ngày nay.
Cụ nhìn trợn mắt, cau mày:
Không đưa hối lộ thì đây đếch “ừ”.
29. Châu sa nước mắt ròng ròng,
Thấu thiên, thấu địa, thấu lòng em chăng?
30. Chỉ đâu mà buộc ngang trời,
Thuốc đâu mà chữa con người lẳng lơ.
31. Chỉ đâu mà buộc ngang trời Tay đâu mà bụm miệng người thế gian.
32. Chính chuyên chết cũng ra ma,
Lẳng lơ chết cũng đem ra ngoài đồng.
33. Chính chuyên lấy được chín chồng,
Ba chồng thành Lạng, ba chồng thành Cao.
Ba chồng để ngọn sông Đào,
Trở về đóng cửa làm cao chưa chồng.
34. Chọn xoài đừng chọn xoài chua,
Chọn bạn đừng để bạn “cua” bồ mình.
35. Chuối non giú ép chát ngầm,
Trai tơ đòi vợ khóc thầm nửa đêm.
Khóc rồi mẹ lại đánh thêm,
Vợ đâu mà cưới nửa đêm cho mày?
36. Có phúc lấy phải vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh.
Vô phúc lấy phải trẻ ranh (bồ nhí),
Nó ăn, nó phá tan tành nó đi.
37. Con gái chơi với con trai,
Rồi sau cái vú bằng hai trái dừa.
38. Con ơi nhớ lấy câu này Cướp đêm là giặc cướp ngày là quan.
39. Còn duyên như tượng tô vàng,
Hết duyên như tổ ong tàn ngày mưa.
40. Còn duyên kẻ đón người đưa.
Hết duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
41. Còn duyên kẻ đợi người chờ,
Hết duyên vắng ngắt như Chùa Bà Đanh.
42. Công anh xúc tép nuôi lươn,
Nuôi cho nó lớn, nó trườn nó đi.
43. Công anh xúc tép nuôi cò,
Cò ăn cò lớn, co giò cò bay.
44. Công anh chăn nghé đã lâu,
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày.
45. Chiều chiều có kẻ thất tình,
Dựa mai mai úa, dựa đình đình xiêu.
46. Chuông già đồng điếu chuông kêu,
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.
47. Chớ nghe quân tử nỉ non,
Để rồi có lúc ẵm con một mình.
48. Cá tươi xem lấy đôi mang Người khôn xem lấy đôi hàng tóc mai Tóc mai sợi vắn sợi dài Có đâu mặt rỗ đá mài không trơn.
49. Cánh hồng bay bổng trời thu Thương con chim gáy cúc cu trong lồng.
50. Cau già dao bén thì ngon Người già trang điểm phấn son cũng già.
51. Cau non khéo bửa cũng dầy Trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm.
52. Cây cao bóng mát không ngồi Ra ngồi chỗ nắng trách trời không mây.
53. Cây cao chẳng quản gió lung Ðê cao chẳng quản nước sông tràn vào.
54. Cây cao thì gió càng lay Càng cao danh vọng, càng dày gian nan.
55. Canh bầu nấu với cá trê Ăn vô cho mát mà mê vợ già.
56. Có chồng mà chẳng có con Cũng bằng hoa nở trên non một mình.
57. Cây vông đồng không không trồng mà mọc Con gái xóm này chẳng chọc mà theo.
58. Chẳng nên cơm cháo gì đâu Trở về đốt bãi trồng dâu nuôi tằm.
59. Chê đây, lấy đấy sao đành Em chê cam sành, lấy phải quít hôi Quít hôi bán một đồng mười Cam ba đồng một, quít ngồi trơ trơ.
60. Chèo ghe sợ sấu cắn chân Xuống bưng sợ đĩa, lên rừng sợ ma.
61. Chèo ghe xuống biển bắt cua Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi.
62. Chì khoe chì nặng hơn đồng Sao chì chẳng đúc nên cồng, nên chuông.
63. Cười người chớ vội cười lâu Cười người hôm trước hôm sau người cười.
64. Chó đâu chó sủa lỗ không Không thằng ăn trộm cũng ông ăn mày.
65. Chuột chù chê khỉ rằng hôi Khỉ lại trả lời "cả họ mầy thơm" !
66. Chuột kêu chút chít trong rương Anh đi cho khéo đụng giường mẹ hay.
67. Duyên em đáng giá ngàn vàng,
Anh về bán cả họ hàng cưới em.
Nhưng chàng trai đáp:
Anh về bán cái hột xoàn,
Bán thêm cây vàng dư sức cưới em.
68. Đàn ông năm, bảy trái tim,
Trái ở cùng vợ, trái toan cùng người.
69. Đang khi lửa tắt, cơm sôi,
Lợn la, con khóc, chồng đòi “tòm tem”.
Bây giờ lửa đã cháy rồi,
Lợn no, con nín “tòm tem” thì tòm.
70. Đêm qua để cửa chờ chồng,
Đêm nay để cửa chờ ông láng giềng.
71. Đêm khuya năm vợ ngồi hầu,
Vợ cả pha nước, têm trầu chàng xơi.
Vợ hai trải chiếu chàng ngồi,
Vợ ba coi sóc nhà ngoài, nhà trong.
Vợ tư sửa soạn giăng mùng,
Vợ năm dưới bếp trong lòng xót xa.
Chè thưng, cháo đậu bưng ra,
Chàng xơi một bát kẻo mà hết gân.
72. Đêm nằm ôm gối thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
73. Đi đâu mà chẳng lấy chồng,
Người ta lấy hết chổng mông mà gào.
Gào rằng đất hỡi, trời ơi,
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
74. Đi chùa lạy Phật cầu chồng,
Hộ Pháp liền bảo đàn ông hết rồi.
75. Đôi ta như rắn liu điu,
Nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau.
76. Đường Sài Gòn cong cong, quèo quẹo,
Gái Sài Gòn không ghẹo mà theo.
77. Đường lục tỉnh cong cong, quèo quẹo,
Gái lục tỉnh không ghẹo mà theo.
78. Đường về đêm tối canh thâu,
Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười.
79. Gá duyên với bạn hôm rằm,
Bữa nay bạn bỏ tôi nằm phòng không.
80. Gái chưa chồng hay đi chợ,
Trai chưa vợ ruột tợ trái chanh.
Ngó lên mây trắng trời xanh,
Thương ai cũng vậy, thương anh cho rồi.
81. Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay nào xách nước, tay nào vo cơm.
82. Gió đưa bụi chuối sau hè,
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ.
Con thơ tay ẵm, tay bồng,
Tay bưng, tay bợ, tay cà muối tiêu.
83. Gió đưa bụi chuối sau hè,
Giỡn chơi chút xíu ai dè có con.
84. Gió đưa bụi chuối tùm lum,
Mẹ anh như hùm ai dám làm dâu.
85. Gió thu thổi ngọn phù dung,
Dạ nàng dù sắt anh nung cũng mềm.
86. Hai cô đứng lại cho đồng,
Để anh đứng giữa làm chồng hai cô.
87. Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
88. Lẳng lơ đeo nhẫn chẳng chừa,
Nhẫn thì rơi mất, lẳng lơ vẫn còn.
89. Lấy chồng từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường cứ ngỡ còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chồng.
90. Lấy chồng từ thuở mười ba,
Chàng chê em bé chẳng cho nằm cùng.
Đến năm mười tám đôi mươi,
Em nằm dưới đất chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương,
Có bốn chân giường gẫy một còn ba.
91. Lựu, lê anh cũng muốn trồng,
Hai em anh cũng thương đồng cả hai.
92. Kẹo Mỏ Cày vừa thơm, vừa béo,
Gái Mỏ Cày vừa khéo, vừa ngoan.
Anh đây muốn hỏi thiệt nàng,
Làm trai Thạnh Phú cưới nàng được chăng?
93. Má ơi đừng gả con xa,
Chim kêu, vượn hú biết đâu mà lần.
Má ơi đừng gả con gần,
Con qua xúc gạo nhiều lần má la.
94. Mồ cha con bướm khôn ngoan,
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.
95. Nam Vang đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
96. Nàng về ta chẳng cho về,
Níu áo nàng lại ta đề bài thơ.
97. Nàng về ta chẳng cho về,
Nắm áo nàng lại ta đề số phone.
98. Nhà này có quái trong nhà Có con chó mực cắn ra đằng mồm.
99. Qua đình ngả nón trông đình
Nhìn anh ăn mặc thùng thình em chê.
100. Rồi đây có kẻ thất tình,
Dựa mai mai ngã, dựa tùng tùng xiêu.
101. Sài Gòn đi dễ khó về,
Trai đi có vợ, gái về có con.
102. Sáng trăng chị tưởng tối trời
Chị ngồi chị để sự đời chị ra
Sự đời như cái lá đa
Đen như mõm chó mã cha sự đời.
103. Số cô chẳng giầu thì nghèo Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà Số cô có mẹ, có cha Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông Số cô có vợ có chồng Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.
104. Sông bao nhiêu nước cho vừa,
Trai bao nhiêu vợ cũng chưa bằng lòng.
105. Thân em như cái chuông vàng,
Để trong thành nội có ngàn lính canh.
Chàng trai đáp lại:
Thân anh như cái chày vồ,
Bỏ lăn, bỏ lốc chờ ngày dộng chuông.
106. Thất tình nước mắt như mưa,
Thấu trời, thấu đất nhưng chưa thấu lòng.
107. Trồng trầu thì phải khai mương,
Làm trai nhiều vợ phải thương cho đồng.
108. Trách ai ăn ở hai lòng,
Đang chơi với phượng, thấy rồng bay theo.
109. Thương anh không tính bạc tiền,
Hôn nhau một cái chết liền cũng vui.
110. Tuổi nàng đã chẵn hai mươi,
Tuổi anh hăm mốt tốt tươi quá chừng.
111. Tiếc công khổ cực nuôi cu,
Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu đi.
112. Trách trời sao vội mưa giông,
Trách em sao vội lấy chồng bỏ anh.
113. Trách người quân tử bạc tình,
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao.
114. Trách người quân tử gian manh,
Chơi hoa rồi lại hái cành kế bên.
115. Trai tơ thì lấy gái tơ,
Đi đâu lật đật mà quơ nạ dòng.
116. Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh phải lấy nàng,
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
117. Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng.
Ước gì anh lấy được nàng,
Hà Nội, Thái Bình sửa đàng rước dâu.
Thanh Hóa cũng đốn trầu cau,
Nghệ An thì phải thui trâu, mổ bò.
Phú Thọ quạt nước hỏa lò,
Hải Dương rọc lá làm giò, gói nem.
Tuyên Quang nấu bạc, đúc tiền,
Ninh Bình dao thớt, Quảng Yên đúc nồi.
Kiên Giang gánh đá nung vôi,
Thừa Thiên, Đà Nẳng thổi xôi, nấu chè.
Quảng Bình, Hà Tĩnh thuyền ghe,
Sài Gòn, Gia Định chẻ tre bắc cầu.
Anh mời khắp nước chư hầu,
Nước Tây, nước Tàu anh gởi thư sang.
Nam Tào, Bắc Đẩu dọn đàng,
Thiên Lôi, La Sát hai hàng, hai bên.
118. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày, vợ cấy, thằng cu ra đời.
119. Trời sao trời ở bất công,
Người ba bốn vợ, người không vợ nào!
120. Thu đi để lại lá vàng,
Anh đi để lại cho nàng thằng cu.
Mùa thu tiếp nối mùa thu,
Thằng cu tiếp nối thằng cu ra đời.
121. Thuyền theo lái, gái theo chồng,
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng theo.
122. Ước gì em hóa ra dơi,
Bay đi bay lại đến nơi anh nằm.
123. Yêu em mấy núi cũng trèo,
Khi em có chửa mấy đèo cũng dông.

Sưu tầm

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

Tục ngữ ca dao nông thôn Việt Nam



Nền văn hóa nông nghiệp, sản xuất lúa nước truyền thống của dân tộc ta đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn hóa, sinh hoạt, lao động. Trải qua bao thế hệ cha ông ta đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất và dự báo những hiện tượng tự nhiên như nắng, mưa, gió rét, bão lụt có ảnh hưởng đến mùa màng, thời vụ. Những kinh nghiệm máu xương của bao đời được tích tụ trong những câu tục ngữ, ca dao về trồng lúa, trồng cây, chăn nuôi… Đây chính là bài học quý giá mà người nông dân Việt Nam xưa kia truyền lại cho các thế hệ cháu con.
1. Anh ơi! Cố chí canh nông,
Chín phần ta cũng dự trong tám phần.
Hay gì để ruộng mà ngăn,
Làm ruộng cấy lúa, chăn tằm lấy tơ.
Tằm có lứa, ruộng có mùa.
Chăm làm trời cũng đền bù có khi…
2. Ăn kĩ no lâu
Cày sâu tốt lúa.
3. Ao to ta thả cá chơi
Vườn rộng nuôi vịt, vườn khơi nuôi gà
Quanh năm khách khứa trong nhà
Ao vườn sẵn có lọ là tìm đâu ?
4. Buồn về một nỗi tháng giêng,
Con chim cái cú nằm nghiêng thở dài.
Buồn về một nỗi tháng hai,
Đêm ngắn ngày dài, thua thiệt người ta.
Buồn về một nỗi tháng ba,
Mưa dầm, nắng lửa, người ta lừ đừ.
Buồn về một nỗi tháng tư,
Con mắt lừ đừ, cơm chẳng muốn ăn.
Buồn về một nỗi tháng năm,
Chửa đặt mình nằm, gà gáy chim kêu.
5. Buồn buồn đếm cọng rơm chơi
Đếm hoài không hết buồn ơi là buồn.
6. Bao giờ cho đến tháng ba
Hoa gạo rụng xuống bà già cất chăn.
7. Bươn chải không bằng phải thì.
8. Bốc mả kiêng ngày trùng tang Trồng lang kiêng ngày gió bấc.
9. Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước giếng trong cá nó vẫy vùng.
10. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa,
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm.
11. Chuối đàng sau, cau đàng trước.
12. Con trâu là đầu cơ nghiệp.
13. Chín gang trâu cười, mười gang trâu khóc.
14. Chân to, bàn nặng kéo cày làm sao? Lại thêm tiền thấp hậu cao Đuôi chùng quá gối đi nào được đâu!
15. Chó khôn tứ túc huyền đề.
Tai hơi cúp, đuôi thì hơi cong.
Giống nào mõm nhọn đít vồng,
Ăn càn cắn bậy ấy không ra gì.
16. Chiêm xong lại đến vụ mùa
Hết mùa rau muống đến mùa cải hoa
Đừng khinh dưa muối, tương cà
Tuy rằng ít bổ, nhưng mà có luôn.
17. Cấy thưa thừa thóc
Cấy dày cóc được ăn.
18. Cấy thưa hơn bừa kĩ.
19. Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi đổ xuống như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
20. Cô kia gánh nước quang mây!
Cho xin một gáo tưới cây ngô đồng.
Ngô đồng thêm tốt, thêm xanh,
Để cho chim phượng đậu cành so le.
21. Cơn mưa đằng đông vừa trông vừa chạy Cơn mưa đằng tây mưa dây bão giật Cơn mưa đằng nam vừa làm vừa chơi Cơn mưa đằng bắc đổ thóc ra phơi.
22. Chớp đông nhay nháy, gà gáy thì mưa.
23. Cỏ gà mầu trắng, điềm nắng đã hết.
24. Dâu non ngon miệng tằm.
25. Dày sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
26. Diều hâu rít lưỡi, lạnh giá tới nơi.
27. Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm.
28. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng,
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
29. Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ,
Tua rua, bằng mặt, cất bát cơm chăm.
30. Đất thiếu trồng dừa, đất thừa trồng cau.
31. Được mùa cau, đau mùa lúa.
32. Đố ai biết lúa mấy cây,
Biết sông mấy khúc, biết mây mấy từng.
Đố ai quét sạch lá rừng,
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây.
33. Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng,
Đèn ra trước gió, còn chăng hỡi đèn?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn,
Cớ sao trăng phải chịu luồn đám mây?
34. Đông chết se Hè chết nước.
35. Én bay thấp mưa ngập cầu ao,
Én bay cao mưa rào lại tạnh.
36. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.
37. Gió bấc hiu hiu, sếu kêu thì rét.
38. Gió nam đưa xuân sang hè.
39. Giàu nuôi lợn nái, lụi bại nuôi bồ câu.
40. Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời.
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn.
41. Hàm nghiến lưỡi đốm hoa cà Vểnh sừng, tóc chóp cửa nhà không yên.
42. Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.
43. Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa gần tới.
44. Khó thay công việc nhà quê,
Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai.
Tháng chạp thời mắc trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi.
Tháng năm gặt hái vừa rồi,
Bước sang tháng sáu nước trôi đầy đồng.
Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng sá kể sớm trưa.
Tháng sáu, tháng bảy khi vừa,
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
Tháng tám lúa trỗ đã đành,
Tháng mười gặt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn làm mấy tháng trời,
Lại còn mưa nắng bất thời khổ trông.
Cắt rồi nộp thuế nhà công,
Từ rày mới được yên lòng ấm no.
45. Lúa chiêm lấp ló đầu bờ,
Hễ nghe tiếng sấm, phất cờ mà lên.
46. Lúa khô cạn nước ai ơi,
Rủ nhau tát nước chờ trời còn lâu.
47. Làm ruộng ăn cơm nằm,
Chăn tằm ăn cơm đứng.
48. Lợn đói một năm không bằng tằm đói một bữa.
49. Làm ruộng có năm, nuôi tằm có lứa.
50. Lạt mềm buộc chặt.
51. Lời chào cao hơn mâm cỗ.
52. Làng ta phong cảnh hữu tình,
Dân cư giang khúc như hình con long.
Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.
Vụ năm cho đến vụ mười,
Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.
Trời ra: gắng, trời lặn: về,
Ngày ngày, tháng tháng nghiệp nghề truân chuyên.

Dưới dân họ, trên quan viên.
Công bình giữ mực cầm quyền cho thay.
Bây giờ gặp phải hội này,
Khi thời hạn hán, khi hay mưa dầm.
Khi thời gió bão ầm ầm,
Đồng điền lúa thóc mười phần được ba.
Lấy gì đăng nạp nữa mà,
Lấy gì công việc nước nhà cho đang.
Lấy gì sưu thuế phép thường,
Lấy gì bổ trợ đong lường làm ăn.
Trời làm khổ cực hại dân,
Trời làm mất mát có phần nào chăng.
53. Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
54. Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang,
Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút.
55. Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật.
56. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
57. Mồng một lưỡi trai, mồng hai lá lúa.
Mồng ba câu liêm, mồng bốn lưỡi liềm
Mồng năm liễm giật, mùng sáu thật trăng…
58. Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo.
59. Muốn ăn lúa tháng năm, trông trăng rằm tháng tám. Muốn ăn lúa tháng mười, trông trăng mồng tám tháng tư.
60. Mồng chín tháng chín có mưa,
Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn.
Mồng chín tháng chín không mưa,
Thì con bán cả cày bừa đi buôn.
61. Mồng chín tháng chín không mưa
Mẹ con bán cả cày bừa mà ăn
Mồng chín tháng chín có mưa
Mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng.
62. Mống dài trời lụt, mống cụt trời mưa.
63. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.
64. Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
65. Mồng một không trăng Mồng hai lá lúa (rất nhỏ) Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mồng năm liềm giật Mồng sáu thật trăng
66. Mười rằm trăng náu
Mười sáu trăng treo
Mười bảy sảy giường chiếu
Mười tám trăng lẹm
Mười chín dụn dịn
Hai mươi giấc tốt
Hăm mốt nửa đêm
Hăm hai bằng tai
Hăm ba bằng đầu
Hăm bốn ở đâu
Hăm lăm ở đấy
Hăm sáu đã vậy
Hăm bảy làm sao
Hăm tám thế nào
Hăm chín thế ấy
Ba mươi không trăng.
67. Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi.
68. Mua trâu xem vó, mua chó xem chân.
69. Mít chạm cành, chanh chạm rễ.
70. Mít tròn, dưa méo, thị vẹn trôn.
71. Mồ hôi mà đổ xuống đồng
Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.
72. Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi, thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về.
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
Chín mười cắt rạ đồng mùa,
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng.
Anh ăn rồi anh lại nằm,
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
Chẳng thà lấy chú lực điền,
Gạo bồ, thóc giống còn phiền nỗi chi.
73. Một quan tiền tốt mang đi,
Nàng mua những gì hãy tính cho ra.
Thoạt tiên mua ba tiền gà,
Tiền rưỡi gạo nếp với ba đồng trầu.
Trở lại mua sáu đồng cau,
Tiền rưỡi miếng thịt, giá rau mười đồng.
Có gì mà tính chẳng thông,
Tiền rưỡi gạo tẻ, sáu đồng chè tươi.
Ba mươi đồng rượu chàng ôi,
Ba mươi đồng mật, hai mươi đồng vàng.
74. Mạnh vì gạo, bạo vì tiền.
75. Nhờ trời mưa gió thuận hoà.
Nào cầy nào cấy, trẻ già đua nhau.
Chim, gà, cá, lợn, cành cau,
Mùa nào thức nấy giữ màu nhà quê.
76. Nhờ trời mưa gió thuận hòa,
Lúa vàng dầy ruộng, lời ca vang đồng.
77. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
78. Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa.
79. Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.
80. Năm trước được cau, năm sau được lúa.
81. Nắm cỏ, giỏ thóc.
82. Nuôi gà phải chọn giống gà,
Gà ri bé giống nhưng mà đẻ mau
Nhất to là giống gà nâu,
Lông dày thịt béo về sau đẻ nhiều.
83. Nuôi gà phải chọn giống gà Gà dù bé giống nhưng mà đẻ sai. Thứ nhất là giống gà nâu Lòng to, thịt béo về sau đẻ nhiều. Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều trứng lớn con vừa khéo nuôi Chả nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về.
84. Nắng sớm trồng cà
Mưa sớm ở nhà phơi thóc.
85. Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói lên nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói bay đến tận thiên tào
Ngọc Hoàng phán hỏi: Đứa nào đốt rơm ?
86. Người ta đi cấy lấy công,
Tôi nay đi cấy còn trông nhiều bề,
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng, đá mềm,
Trời an, bể lặng mới yên tấm lòng.
87. Nuôi tằm cần phải có dâu,
Muốn cho dâu tốt phải mau vun trồng.
Vườn thì cuốc rãnh thong dong,
Cách nhau hai thước đặt hông cho đầy.
Giống dâu ưa nước xưa nay,
Nhưng mà ngập hết thì cây cũng già.
88. Nửa đêm sao sáng mây cao,
Triệu trời nắng gắt nắng gào chẳng sai.
89. Nửa đêm trăng tắt sao tàn,
Láng giềng ngủ hết, em đàn anh nghe.
90. Ong về mần nhiều, liệu chiều kiếm củi.
91. Ong vàng làm thấp, bão sấp bão ngửa.
92. Ông trăng một sào, ông sao một mẫu.
93. Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu
Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng.
Ai ơi! Chớ bỏ ruộng hoang,
Bao nhiêu tất đất, tất vàng bấy nhiêu.
94. Phân tro không bằng no nước.
95. Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng.
96. Quê anh ngày tám, tháng ba,
Quay vào làm rọ, quay ra đan lờ.
Nhờ trời mưa nắng thuận hòa,
Lờ rọ bán được, cảnh nhà thêm vui.
97. Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cầy vợ cấy, con trâu đi bừa.
98. Ra đi anh có dặn dò,
Ruộng sâu cấy trước, ruộng gò cấy sau.
Hễ mà hoa quả được mùa,
Chắc là nước bể, nước mưa đầy trời.
Ai ơi nên nhớ lấy lời,
Trông cơ trời đất, liệu thời làm ăn.
99. Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa.
100. Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì mưa.
101. Rồng đen lấy nước thì nắng Rồng trắng lấy nước thì mưa.
102. Rễ si đâm trắng phau phau Mưa to gió lớn rủ nhau cùng về.
103. Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi. Mồm gầu dai, tai lá mít, đít lồng bàn. Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu. Chẳng tậu thì sao?
104. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
105. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân.
106. Tháng tám nắng rám trái bưởi.
107. Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
108. Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
109. Thiếu tháng hai mất cà,
Thiếu tháng ba mất đỗ,
Thiếu tháng tám mất hoa ngư,
Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
110. Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, trồng khoai trồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Gánh đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm.
Sáng ngày đem lúa ra ngâm,
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi nên mạ thì ta nhổ về.
Xuất tiền mướn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước ruộng vơi mười còn độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gàu dai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gàu sòng.
Chờ cho lúa trổ đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta,
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.
111. Tháng chạp là tháng trồng khoai,
Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ mưa sa đầy đồng.
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày vợ cấy trong lòng vui thay.
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy em xay em giã,
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung đỉnh giàu sang một mình.
112. Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm…
113. Tháng giêng chân bước đi cày,
Tháng hai vãi lúa ngày ngày siêng năng.
Thuận mưa lúa tốt đằng đằng,
Tháng mười gặt lúa ta ăn đầy nhà.
114. Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè.
Tháng tư đong đậu nấu chè,
Ăn tết đoan ngọ trở về tháng năm.
Tháng sáu buôn nhãn bán trăm,
Tháng bảy hôm rằm, xá tội vong nhân.
Tháng tám chơi đèn kéo quân,
Trở về tháng chín chung chân buôn hồng.
Tháng mười buôn thóc, bán bông,
Tháng một tháng chạp nên công hoàn thành.
115. Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ nấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa đem về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
116. Thưa ao tốt cá.
117. Thừa mạ thì bán, chớ có cấy dày ăn rơm.
118. Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu.
119. Trâu gầy cũng tày bò giống.
120. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh,
Bò năm sáu tuổi đã tranh về già,
Đồng chiêm xin chớ nuôi bò,
Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao!
121. Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
122. Trời mưa trời gió đùng đùng
Cha con ông Sùng đi gánh cứt trâu
Gánh về trồng bí trồng bầu
Trồng hoa trồng quả trồng trầu trồng cau.
123. Tôm đi chạng vạng cá đi rạng đông.
124. Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn cho béo trâu cày cho sâu.
Ở đời khôn khéo chi đâu,
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.
125. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà Trong ba việc ấy lo là khó thay!
126. Trâu trắng đi đâu mất mùa đấy.
127. Trâu quá sá, mạ quá thì.
128. Trâu hoa tai, bò gai sừng.
129. Trâu tóc chóp, bò mũ mấn.
130. Tốt giống, tốt mạ.
Tốt mạ, tốt lúa.
131. Tháng sáu thì cấy cho sâu
Tháng chạp cấy nhảy mau mau mà về.
132. Tháng chạp cày vỡ ruộng ra
Tháng giêng làm mạ mưa sa đầy đồng
Ai ơi cùng vợ cùng chồng
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
133. Tre ngà trổ hoa, lúa mùa rồi hỏng
Tháng tám mưa trai, tháng hai mưa thóc.
134. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
135. Thân anh khó nhọc trăm phần,
Sáng đi ruộng lúa, tối nằm ruộng dưa,
Vội đi quên cả cơm trưa,
Vội về quên cả trời mưa ướt đầu.
136. Thân em vất vả trăm bề,
Sớm đi ruộng lúa, tối về ruộng dâu.
Có lược chẳng kịp chải đầu,
Có cau chẳng kịp tiêm trầu mà ăn.
137. Thú quê rau, cá đã từng,
Gạo thơm cơm trắng chi bằng tấm xoan.
Việc nhà em liệu lo toan,
Khuyên chàng học tập cho ngoan kẻo mà.
138. Tiếc công xuống thác lên ghềnh, Tay chèo, tay chống một mình nhờ ai?
Bây giờ thở vắng than dài,
Ngỡ là hò hẹn, ai hay hẹn hò.
139. Tin nhau buôn bán cùng nhau,
Thiệt hơn, hơn thiệt trước sau như lời.
Hay là lừa đảo kiếm lời,
Một nhà ăn uống tội trời riêng mang.
Theo chi những thói gian tham,
Pha phôi thực giả, tìm đường dối nhau.
Của phi nghĩa có giàu đâu,
Ở cho ngay thật, giàu sang mới bền.
140. Tua rua thì mặc tua rua,
Mạ già ruộng ngấu, không thua bạn điền.
141. Tre già anh để pha nan,
Lớn đan nong né, bé đan giần sàng.
Gốc thì anh để kê giường,
Ngọn ngành anh để cắm giàn trầu, dưa.
142. Trời hè lắm trận mưa rào,
Gặt mùa sớm lúa liệu sao cho vừa.
Khuyên em chớ ngại nắng mưa,
Của chồng công vợ bao giờ quên nhau.
143. Trời mưa lác đác ruộng dâu,
Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay.
Bước chân xuống hái dâu này,
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ.
Thương em chút phận ngây thơ,
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng.
Xa xôi ai có tỏ chừng,
Gian nan tận khổ, ta đừng quên nhau.
Hôm qua dệt cửi thoi vàng,
Sực nhớ đến chàng, cửi lại dừng thoi.
Cửi rầu, cửi tủi chàng ơi,
Ngọn đèn sáng tỏ bóng người đằng xa.
144. Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
145. Văn chương phú lục chẳng hay,
Trở về làng cũ, học cày cho xong.
Sớm ngày vác cuốc thăm đồng,
Hết nước thì lấy gàu sòng tát lên.
Hết mạ ta lại quảy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
Nữa mai lúa chín đầy đồng,
Gặp về đập sảy bõ công cấy cày.
146. Vồng rạp mưa rào, vồng cao gió táp.
147. Xanh nhà hơn già đồng.
148. Xa sừng, mắt lại nhỏ con, Vụng đàn, chậm đẽo ai còn nuôi chi!
Sưu tầm

Nước ép dưa hấu tốt cho sức khỏe


Say rượu
Uống nhiều nước dưa hấu. Không nên để dưa hấu đã cắt trong tủ lạnh, vì dưa hấu bản chất nhiều nước nên sẽ bị đông lại, khi ăn có thể gây viêm họng lợi, buốt răng và rối loạn tiêu hóa.
Nước giải khát mùa hè

Nước ép dưa hấu giúp thanh nhiệt

Nước dưa hấu tươi phòng chữa được tất cả các chứng có hỏa - nhiệt - thấp, sốt cao, khát nước, miệng khô đắng, chán ăn, táo bón, tiểu đỏ sẻn.
Nếu bị cảm nắng (trúng thử) và các triệu chứng đó nặng hơn gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy (do thấp nhiệt), vẫn cho uống nước dưa hấu và phối hợp thêm đạm đậu sị 2g, hương nhu 8g, sắc uống.
Thức ăn tráng miệng mùa hè
Có tác dụng tốt sau khi uống rượu và ăn các thức ăn sinh nhiều nhiệt như thịt dê, thịt chó…
Cháo thanh nhiệt: Dưa hấu 1 kg, cát cánh 25 g (thái nhỏ), đường phèn 100 g, gạo tẻ 100 g. Hoặc dùng vỏ dưa hấu và lạc mỗi thứ 200 g, mạch nha 100 g, ý dĩ 100 g. Có thể ăn liền một tuần khi mệt mỏi, chán ăn.
Trẻ em cảm sốt
Vỏ dưa hấu 1 kg, chè xanh 10 g, bạc hà 15 g, nấu nước uống. Hoặc dưa hấu 1.500 g, cà chua 250 g (bỏ vỏ, hạt), vắt lấy nước uống. 
Phụ nữ có thai và người cao tuổi bí tiểu
Nhân hạt dưa hấu 15 g, giã nát trộn với 15 g đường, nấu nước uống ngày một lần.
Theo Kienthucgiadinh.vn

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Những sai lầm về cách bổ sung canxi


Canxi là chất khoáng rất cần thiết cho cơ thể. Nhưng nếu không biết cách bổ sung canxi thì không những không hấp thu được mà còn gây hại.
 
Dưới đây là 8 cách hiểu sai về việc bổ sung canxi mà bạn nên sớm từ bỏ.

Thường xuyên ăn canh xương thì sẽ có đủ canxi

Canxi trong canh xương tuyệt đối không dễ bị hòa tan. Sau khi ninh một nồi xương trong nồi áp suất khoảng 2 giờ đồng hồ, chất béo trong tủy xương lần lượt nổi lên, nhưng canxi trong nước xương vẫn rất ít. Vì vậy quan điểm cứ ăn nhiều canh xương thì sẽ có đủ canxi là không đúng.

Nếu bạn muốn dùng canh xương để bổ sung canxi chỉ có một cách: Thêm một lượng giấm vừa phải, từ từ hầm trong khoảng 1-2 giờ. Giấm có thể giúp canxi trong xương hòa tan một cách hiệu quả.

Ăn rau không liên quan tới sức khỏe của xương

Rất nhiều người chỉ thích ăn thịt mà không chịu ăn rau. Họ tưởng rằng trong rau xanh chỉ có chất xơ và vitamin, không liên quan tới sức khỏe của xương. Nhưng trên thực tế, rau không chỉ chứa một lượng lớn nguyên tố kali, magie, có thể giúp duy trì sự cân bằng axit-bazo, giảm tình trạng mất canxi.

Bản thân các loại rau còn chứa không ít canxi. Rau diếp, bắp cải, cải xoăn, cần tây… đều là những loại rau bổ sung canxi không thể xem nhẹ. Vitamin K trong rau xanh là yếu tố hình thành của osteocalcin, osteocalcin giúp tích tụ canxi vào xương.

Rau bina không giúp bổ sung canxi

Mọi người đều biết, rau bina không thể ăn cùng với đậu phụ, bởi vì một lượng lớn axit oxalic trong đó có thể kết hợp với canxi tạo thành kết tủa không hòa tan, không tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên, trong rau bina cũng có chứa một nhân tố thúc đẩy sự hấp thụ canxi đó là rất giàu magie, kali và vitamin K. Rau bina là kho vitamin K quý báu được công nhận với hàm lượng đứng đầu bảng trong các loại rau xanh mà vitamin K lại là chất xúc tác rất tốt trong việc bổ sung canxi vào xương.

Đồ uống không liên quan tới canxi

Các loại đồ uống không phải là nước lọc thường chứa phốt phát, và chất này có thể cản trở nghiêm trọng sự hấp thụ canxi, tăng nguy cơ mất canxi.

Nước coca là thủ phạm lớn nhất, bởi vì trong loại đồ uống này có chứa axit photphoric. Khi răng và xương ngấm cocacola, chúng sẽ từ từ tan chảy! Đường tinh chế trong đó cũng không giúp hấp thụ canxi. Cho nên, nếu là người cần bổ sung canxi thì phải tuyệt đối hạn chế nước ngọt. Nhưng trà xanh lại chứa nhiều kali, hàm lượng phốt pho thấp, cũng có cả nguyên tố flo giúp xương răng chắc khỏe, nên uống trà có lợi cho sức khỏe của xương.
 
Ăn thịt bò tốt cho xương

Không ít người tin rằng, xương của người Âu – Mỹ chắc khỏe là do họ thích ăn thịt bò. Sự thật là, những người hay ăn thịt bò lại là những người thiếu canxi nghiêm trọng. Bởi vì bản thân thịt bò chứa rất ít canxi. Đồng thời, trong thịt bò còn giàu các nguyên tố có tính axit, chủ yếu là phốt pho, lưu huỳnh và clo.

Chúng khiến máu có tính axit, khi đó cơ thể phải dùng canxi trong thực phẩm và canxi trong xương để trung hòa các nguyên tố axit, từ đó tăng sự bốc hơi canxi và giảm hấp thụ canxi trong cơ thể. Cho nên, người trung niên thiếu canxi nên hạn chế ăn thịt, dù là thịt đỏ hay thịt trắng.

Sữa đậu nành là thực phẩm giàu canxi nhất

Các chuyên gia dinh dưỡng từng khuyến cáo rằng, những người không thể uống sữa có thể dùng sữa đậu nành để thay thế. Nhưng thực ra, trên nhiều khía cạnh, sữa đậu nành dù là thực phẩm rất tốt, nhưng xét về hàm lượng canxi, nó lại không thể bằng được so với sữa. Tuy nhiên, sữa đậu lại tốt cho xương, bởi vì nó cung cấp estrogen, giảm sự mất canxi ở phụ nữ thời kỳ mãn kinh.
Sữa đậu nành dù là thực phẩm rất tốt, nhưng xét về hàm lượng canxi, nó lại không
thể bằng được so với sữa. Ảnh minh họa
 
Tảo biển có thể bổ sung canxi

Không ít người cho rằng, canxi trong tảo biển rất nhiều nhưng chỉ hạn chế trong tảo biển khô. Nếu uống thêm nước, hàm lượng canxi khi đó không còn nhiều nữa. Ngoài ra, chất gel rong biển trong tảo có thể hòa tan chất xơ sẽ ngăn chặn sự hấp thụ canxi, bởi vì chúng có thể cùng với canxi hình thành hợp chất rắn, xuyên qua đường ruột. Nhưng tảo biển cũng là thực phẩm có lợi cho sức khỏe, nó là thực phẩm tính kiềm điển hình, thường xuyên sử dụng sẽ giảm sự biến mất canxi.

Dùng đậu hũ nước (tào phớ) để bổ sung canxi

Nhiều người cho rằng, đậu hũ nước là thực phẩm bổ sung canxi tốt nhất trong thực phẩm thực vật. Bản thân đậu đã chứa không ít canxi, khi đậu phụ chắc lại còn cho thêm chất kết tủa canxi, cho nên những người không uống được sữa đều ăn đậu hũ.

Tuy nhiên, đậu hũ nước không phải là nguồn canxi tốt, bởi vì trong đó không cho thêm chất kết tủa canxi, mà là sử dụng gluconolactone như một chất kết tủa. Đồng thời, nước trong đậu hũ quá nhiều, hàm lượng protein và canxi đều rất thấp.

Theo aFamily.vn/TTVN